Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ (chẩn đoán và điều trị)

Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.

Chẩn đoán phân biệt các khối vùng cổ phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí của khối ở cổ, tuổi bệnh nhân, và sự tiến triển của bệnh, khối phát triển nhanh chóng, và đau gợi ý là quá trình viêm; trong khi cứng, không đau và to ra chậm lại thường là các khối u.

Ở người trẻ, hầu hết các khối u là lành tính (u nang cung mang, nang giáp - lưỡi, viêm hạch phản ứng), tuy vậy nên luôn nghĩ đến các u ác tính (u lympho, ung thư tuyến giáp di căn, và các u khác).

Bệnh lý hạch thường gặp ở những người HIV dương tính nhưng những khối u đang phát triển hoặc khối u lấn át có thể là u lympho hoặc di căn của ung thư tế bào vảy; ở những người trên 40 tuổi, ung thư là nguyên nhân hay gặp nhất của các khối u lâu ngày ở vùng cổ. Di căn từ ung thư tế bào vảy ở miệng, họng, thanh quản hoặc những phần trên thực quản cần nghi ngờ và đặc biệt nếu bệnh nhân có tiền sử hút thuốc hoặc uống rượu nhiều. Ở những bệnh nhân trẻ dưới 30 tuổi và già hơn 70 tuổi cần nghĩ đến u lympho nhiều hơn. Khám kỹ lưỡng về tai mũi họng là điều quan trọng nhất, đánh giá tế bào học qua chọc hút khối u bằng kim nhỏ là bước tiếp theo nếu khối u tiên phát không nhìn thấy hoặc không sờ thấy khi khám thực thể.

Các tổn thương bẩm sinh biểu hiện dưới dạng khối ở vùng cổ của người lớn

Nang cung mang

Thường biểu hiện là nang mềm, dọc bờ trước cơ ức đòn chũm. Các tổn thương này thường được phát hiện ở tuổi 20 đến 30, khi chúng đột nhiên to lên hoặc bị nhiễm khuẩn. Để phòng nhiễm khuẩn tái phát và có thể bị ung thư hóa, các nang này nên được cắt bỏ hoàn toàn, dọc theo đường dò của chúng.

Nang cung mang thứ nhất ở vùng cổ cao, đôi khi ngay dưới tai, có thể thấy lỗ dò nối với sàn của ống tai ngoài. Dò cung mang thứ hai hay gặp hơn, có thể nối với hốc amidan. Dò cung mang thứ ba có thể mở vào xoang lê, loại này hiếm gặp.

Dò giáp - lưỡi

Đây là tàn tích của quá trình phát triển bào thai của tuyến giáp đi từ củ đơn ở đáy lưỡi xuống tới vị trí thường thấy ở dưới cổ. Mặc dù bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào, nhưng chúng thường gặp nhất trước 20 tuổi. Biểu hiện bệnh là khối ở giữa cổ, thường ngay dưới xương móng, di động theo nhịp nuốt, Phẫu thuật nhằm đề phòng nhiễm khuẩn tái phát. Cần cắt bỏ toàn bộ đường dò với phần giữa của xương móng.

Các khối nhiễm khuẩn và viên ở cổ

Bệnh hạch lympho vùng cố phản ứng

Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau. Hạch to thường gặp ở những người bị nhiễm HIV. Trừ những trường hợp hạch mưng mủ mới cần trích rạch dẫn lưu, còn lại điều trị chỉ là chống nhiễm khuẩn. Đối với những hạch to và kéo dài có thể dùng kim nhỏ chọc hút để xác định sưng chỉ là do phản ứng và loại trừ khối u ác tính. Hạch to không liên quan với nhiễm khuẩn cần phải được khám xét thêm.

Các nhiễm khuẩn Mycobacteria vùng cổ không điển hình (bệnh tràng nhạc)

Các khối u tổ chức hạt vùng cổ không phải là không thường gặp, chẩn đoán phân biệt gồm bệnh mèo cào, bệnh sarcoid và viêm hạch do mycobacteria. Viêm hạch do mycobacteria không điển hình (bệnh tràng nhạc) thường biểu hiện như bệnh lý hạch dai dẳng, có thể trở nên cố định vào da và vỡ ra ngoài. Mặc dầu chọc hút bằng kim nhỏ có thể thấy tổ chức hạt, việc chứng minh mycobacteria bằng nhuộm acid nhanh (bệnh phẩm lấy bằng chọc hút kim hoặc mở ra sinh thiết) hoặc cấy vi khuẩn là cần thiết để xác định chẩn đoán và phát hiện độ nhạy kháng sinh. Điều trị bệnh tràng nhạc thành công nhất là lấy bỏ toàn bộ các hạch bệnh lý và dùng kháng sinh chống lao ít nhất 6 tháng. Kháng sinh được chỉ định dựa vào kết quả kháng sinh đồ nhưng thường gồm isoniazid, rifampin dùng ít nhất 2 tháng đầu, ethambutol trong liều chuẩn. Phẫu thuật lấy toàn bộ hạch có thể có nhiều nguy hiểm (gần dây thần kinh VII). Điều trị thử bằng chọc hút, chích rạch và dẫn lưu là cổ giá trị (cùng với điều trị chống lao). Viêm hạch do mycobacteria trong số bệnh nhân HIV tăng cao.

Bệnh Lyme

Bệnh Lyme do xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi và lan truyền qua bọ tic Ixodes  ricinus. Biểu hiện bệnh có thể thay đổi hình dạng, nhưng trên 75% các bệnh nhân có triệu chứng ở vùng đàu cổ. Liệt mặt, mất cảm giác, loạn vị giác và tổn thương các dây thần kinh sọ não khác thường gặp nhất. Có thể có đau đầu và sưng và đau hạch cổ.

Các khối u di căn

Ở người già 80% các khối vùng cổ rắn, có lâu ngày và to ra là do di căn. Phần lớn là các di căn của ung thư tế bào vảy đường hô hấp và tiêu hóa trên. Khám đầu cổ một cách hoàn chỉnh có thể phát hiện được u nguyên phát; nhưng thăm khám dưới gây mê toàn thân với soi thanh quản, phế quản, thực quản trực tiếp thường dùng để đánh giá đầy đủ về khối u và loại trừ nguồn gốc thứ phát. Thường cần chẩn đoán tế bào học nếu thăm khám vùng cổ không phát hiện được khối u tiên phát. Mở khối u để sinh thiết chỉ thực hiện khi các thăm khám thực thể không phát hiện được u nguyên phát và chọc hút bằng kim nhỏ cũng không khu trú được chẩn đoán. Ngoài ung thư tuyến giáp, các di căn của tể bào không là tế bào vảy di căn ở vùng cổ không hay gặp. Trong khi các khối u không có vùng đầu cổ rất hiếm khi di căn tới vùng cổ giữa và cổ trên; vùng trên đòn rất thường liên quan đến các khối u phổi và u vú. Các khối u dưới cơ hoành, trừ ung thư thận, hiếm khi di căn ở vùng cổ.

U lympho

Khoảng 10% u lympho biểu hiện ở vùng đầu và cổ. Khi có nhiều hạch theo chuỗi, đặc biệt là ở người trẻ thì nên nghĩ tới bệnh này. Qua thăm khám thực thể kỹ có thể phát hiện được các vị trí hạch khác hoặc cơ quan bị tổn thương. Chọc hút bằng kim có thể giúp ích chẩn đoán, nhưng cần mở u để sinh thiết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến