Mới đây, 3 bé trai và một bé gái đã cất tiếng khóc chào đời sau ca mổ đẻ thành công tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương Hà Nội. Người mẹ bị hội chứng buồng trứng đa nang, khó có thai nên đã thụ tinh trong ống nghiệm và có 4 thai.
Trên thế giới, thụ tinh trong ống nghiệm hiện được xem là kỹ thuật điều trị vô sinh hiệu quả nhất. Ở Việt Nam hiện nay, mỗi năm có khoảng 15.000 trường hợp thực hiện kỹ thuật này và các kỹ thuật liên quan. Con số có thể tăng khoảng 10% mỗi năm.
Thụ tinh trong ống nghiệm là kỹ thuật điều trị ngoại trú, mỗi đợt kéo dài khoảng 2 tuần. Kỹ thuật này tương đối đơn giản, an toàn, ít biến chứng. Hai biến chứng thường gặp nhất là hội chứng quá kích buồng trứng và đa thai. Với sự phát triển của các phác đồ, tỷ lệ bị quá kích buồng trứng vừa và nặng hiện nay là rất thấp, dưới 1%. Tỷ lệ biến chứng đa thai cao hơn, tùy theo số phôi chuyển vào buồng tử cung.
Một giai đoạn trong quy trình thụ tinh ống nghiệm. Ảnh: Lê Phương. |
Đa thai được định nghĩa là có từ 2 thai trở lên trong buồng tử cung. Theo sinh lý tự nhiên, tử cung người bình thường chỉ đảm bảo khả năng mang thai tốt và an toàn cho một thai. Do đó, khi tử cung phải mang 2 thai trở lên sẽ có nhiều nguy cơ hơn với mẹ và trẻ. Nguy cơ thường gặp và nặng nề nhất là sinh non tháng. Càng nhiều thai thì khả năng sinh non tháng, tỷ lệ chết sau khi sinh càng cao và có thể có để lại nhiều di chứng khi trẻ lớn lên.
Song thai thường được chấp nhận vì nguy cơ thấp hơn và đa số thai đều có thể phát triển tốt, gần đủ tháng và trẻ sinh ra khỏe mạnh. Trong các trường hợp từ 3 thai trở lên, các bác sĩ thường tư vấn kỹ thuật giảm thai, nhằm bỏ bớt số thai trong buồng tử cung. Kỹ thuật giảm thai được thực hiện hiệu quả và an toàn nhất vào tuần thứ 7 đến thứ 8 của thai kỳ. Nếu trễ hơn, sẽ khó thực hiện hơn và tỷ lệ biến chứng sẽ cao hơn.
Do đó khi có đa thai, đặc biệt từ 3 thai trở lên, người phụ nữ cần được bác sĩ tư vấn về các biến chứng của tình trạng này và thực hiện giảm thai đúng thời điểm để tạo điều kiện cho các thai còn lại phát triển tốt hơn, tăng khả năng trẻ sinh ra khỏe mạnh và an toàn hơn cho thai phụ.
Trước đây, do hệ thống nuôi cấy phôi chưa đạt hiệu quả cao, các phương pháp chọn lựa phôi chưa phát triển, tỷ lệ phôi phát triển thành thai thường thấp, chỉ đạt khoảng 15%. Các trung tâm hỗ trợ sinh sản cũng có khuynh hướng chuyển nhiều phôi tươi vào buồng tử cung trong mỗi chu kỳ để tối ưu khả năng có thai, trung bình là 3 phôi. Những ca tiên lượng khó, phôi không tốt, khả năng có thai thấp, có thể chuyển đến 4-5 phôi. Việc này giúp tăng tỷ lệ có thai nhưng cũng làm tăng đáng kể tỷ lệ đa thai. Trước đây, đa thai (từ 2 trở lên) có thể lên đến trên 30% và tỷ lệ từ 3 thai trở lên có thể trên 10%.
Những năm gần đây, nhiều tiến bộ về hệ thống nuôi cấy phôi đã được áp dụng, giúp phôi phát triển tốt hơn, khả năng phát triển và làm tổ sau khi cấy vào buồng tử cung cũng cao hơn, có thể tăng lên từ 20% đến trên 30%. Các kỹ thuật đông lạnh, rã đông phôi cũng phát triển giúp khả năng phôi sống sau rã đông lên đến 98-100%. Nhiều nghiên cứu cho thấy kết quả chuyển phôi sau rã đông có thể bằng hoặc tốt hơn chuyển phôi tươi. Do vậy các trung tâm có xu hướng chuyển phôi ít hơn và đông lạnh phôi để dành cho các lần chuyển sau, tăng tỷ lệ có thai dồn cho các cặp vợ chồng. Bên cạnh đó nhiều kỹ thuật mới được áp dụng, giúp chọn lựa phôi tốt hơn để cấy vào buồng tử cung, giúp tăng khả năng có thai.
Nhờ các tiến bộ trên, xu hướng ngày càng chuyển ít phôi hơn vào buồng tử cung đã diễn ra phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Nếu chuyển phôi sớm ngày thứ 2 hoặc ngày thứ 3 các trung tâm chỉ chuyển 2 phôi cho những trường hợp tốt và 3 phôi cho những trường hợp tiên lượng khó, hiếm khi chuyển 4 phôi. Nếu chuyển phôi trễ hơn vào ngày 5, các trung tâm thường chỉ chuyển một phôi cho trường hợp tốt và 2 phôi cho những trường hợp tiên lượng khó. Với phác đồ này, tỷ lệ có thai sau chuyển phôi vẫn có thể đạt khoảng 40%, trong khi tỷ lệ có song thai trở lên sau thụ tinh trong ống nghiệm thường chỉ khoảng 20-25% và tỷ lệ 3 thai trở lên thường rất thấp, khoảng 2-3%.
Tuy nhiên, một số trường hợp đa thai có thể do một phôi tự phân chia thành 2 hay nhiều phôi, nhưng trường hợp này thường hiếm khi xảy ra. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng các nghiên cứu hiện nay cho thấy nuôi cấy phôi dài ngày đến thời điểm phôi nang vào ngày 5 có thể làm giảm khả năng phát triển của một số phôi.
Thạc sĩ, bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan
Giảng viên Bộ môn Phụ sản Đại học Y Dược TP HCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét