Tăng acid uric cấp xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu như bệnh bạch cầu, u lympho, đa u tủy.
Ung thư là một bệnh mạn tính, nhưng các tình huống cấp cứu có thể xuất hiện như là một biến chứng của xâm lấn tại chỗ (chèn ép tủy, hội chứng tĩnh mạch chủ trên, tràn dịch ác tính v.v) hoặc được sinh ra do các tác động toàn thân (tăng calci máu, nhiễm trùng cơ hội, tăng đông máu, tăng urê máu v.v). Những biến chứng này có thể là biểu hiện của ung thư và cần thiết phải ghi nhận và tìm hiểu kỹ lưỡng.
Nhận định chung
Tăng acid uric cấp xuất hiện như là một biến chứng của quá trình tăng sinh ác tính nhanh chóng, hoặc do điều trị làm tan u mạnh trong các ung thư máu như bệnh bạch cầu, u lympho, đa u tủy. Các u ác có chuyển hóa acid nhân cao như bệnh bạch cầu cấp, u lympho có thể biểu hiện tăng acid uric máu và phối hợp với suy thận. Vấn đề này có thể do sử dụng sintamid lợi niệu, làm giảm sự bài tiết urate. Khi bệnh nhân có tăng acid uric máu, phải săn sóc điều trị làm giảm acid uric tối đa trước khi điều trị ung thư. Các bệnh nhân có hội chứng liền khối u cần phải được theo dõi cẩn thận. Thử acid uric phosphate, calci, creatinin 2 lần 1 ngày trong 2 - 3 ngày đầu điều trị hóa chất. Nếu thấy acid, uric trong máu tăng lên nhanh chóng, là có biểu hiện nguy cơ suy thận urade cấp gây ra do các tinh thể acid uric ở ống xa, gốc góp và nhu mô thận. Nồng độ urat huyết thanh trên 15ng/l là có nguy cơ cao phát triển bệnh thận acid uric. Viêm khớp dạng gút cũng thường là vấn đề khi bệnh nhân có tiền sử bệnh gút.
Điều trị phòng ngừa bao gồm: giảm nguồn uric và tăng bài tiết uric ở thận. Ạllopurinol là một thuốc ức chế cạnh tranh xanthin oxydase và ngăn ngừa xanthin và hypoxanthin. Tan mạch chuyển thành acid uric không hoà tan. 12 - 24 giờ trước khi điều trị dùng liều 600mg, sau đó dùng 300mg/ngày vào thời điểm có nguy cơ cao. Liều cao hơn (tới 900 - 1200mg/ngày) được dùng khi tăng cao acid uric máu do điều trị hóa chất các bệnh nhân dùng hóa chất chống purin như mercaptopurin hoặc azathioprine. Chỉ nên cho 25 - 35% liều hóa chất tính toán nếu họ được dùng allopurinol. Lý do là thuốc này cũng có hiệu quả điều trị và cũng gây độc. Quá trình bài tiết acid uric được tăng cường bằng cách duy trì lợi niệu, và làm kiềm hóa nước tiểu để ngăn ngừa đóng kết tinh thể acid uric. Thuốc lợi tiểu kiềm để duy trì pH nước gần 7,0 được dùng để phòng ngừa khi bệnh nhân có đáp ứng khối u nhanh chóng với tăng uric trong máu cao.
Điều trị cấp cứu
Điều trị cấp nếu tình trạng tăng acid uric máu gồm: 1) bù nưốc 2 - 4 lít dịch một ngày; 2) Kiềm hóa nước tiểu bằng 6 - 8g bicarbonate natri một ngày; 3) allopurinol 900 - 1200mg/ngày; và 4) trong các trường hợp nặng lọc máu cấp cứu. Khi có tăng uric máu cao, điều trị như trên không thích hợp do suy thận và lượng nước tiểu thấp. Dùng Allopurinol đường tĩnh mạch gần đây thấy tốt hơn khi bệnh nhân không chịu được đường uống.
Bệnh nhân có tăng uric máu thường đang có đáp ứng với hóa chất và có tiên lượng tốt. Do đó cần chỉ định điều trị ngăn ngừa tích cực để tránh độc thận. Thậm chí nếu xuất hiện suy thận thì cần lọc máu, chức năng thận có thể trở về bình thường sau đợt tiêu khối u kịch phát chấm dứt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét